Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

VIÊM DA BÃ NHỜN Ở TRẺ EM




Bệnh viêm da thông thường này chưa tìm được nguyên nhân. Nó xảy ra ở da cơ thể, mặt hoặc da đầu. Viêm da bã nhờn có thể xuất hiện đầu tiên vào những tháng đầu đời của bé.

Các triệu chứng trầm trọng khác nhau tuỳ theo số tháng bị bệnh nhưng thường biến mất vào khoảng 2 tuổi. Tuy nhiên viêm Da bã nhờn có thể xuất hiện trở lại sau tuổi dậy thì và sau đó lặp lại theo chu kỳ xuyên suốt cuộc đời.
Triệu chứng
Triệu chứng chính của dạng viêm Da bã nhờn ở trẻ con gồm:
Nổi mẩn lốm đốm có vảy lốm đốm trong các nếp Da của vùng bẹn nhưng đôi khi cũng có trên các vùng khác của cơ thể.
Thỉnh thoảng hơi ngứa.
Các vảy hơi vàng dầy trên da.

Các vùng có vảy trên trán, sau tai và trong chân mày có thể kèm theo các vỏ dày này.
Triệu chứng chính của bệnh viêm Da bã nhờn:
Nổi mẩn lốm đốm có vảy xuất hiện trên mặt, sau tai, trên cổ, trong nách, bẹn.
Thỉnh thoảng bị ngứa.
Gầu tóc, nếu Da đầu bị nhiễm. Có thể thấy vảy Da màu trắng bong lên trên tóc sát Da đầu.

Gãi các vùng bị nhiễm đôi khi dẫn đến nhiễm trùng như Chốc lở làm cho nơi nổi mẩn trở nên đỏ và rịn nước.
Bạn có thể làm gì để giúp bé ?

Vùng Da bị nhiễm phải được giữ sạch bằng dầu gội thay vì xà phòng sẽ làm kích thích Da bị mẩn. Sau khi làm sạch vùng Da bị nhiễm, thoa lên một lớp kem cor-ticoid. Đây là phương pháp hữu hiệu nhất nên được thực hiện sớm khi các triệu chứng mới bắt đầu.

Vảy vàng dày lên Da đầu sẽ tự biến mất trong vòng một vài tuần hoặc một tháng. Tuy nhiên bạn có thể làm cho mảng vảy vàng nảy tự chóc bằng cách xoa nhẹ Da đầu của bé bằng dầu em bé hay dầu ôlui và để thấm qua đêm. Hôm sau chải tóc bé để làm tróc các vảy vàng đã mềm rồi gội sạch. Thuốc thoa axít salicylic hoặc dầu gội đầu đặc biệt có bán tại các cửa hàng cũng có thể trị được loại vẩy này.

Dùng dầu gội đầu đặc biệt cũng như chải tóc bé hằng ngày có thể chặn đứng được hình thành các lớp mảng vảy. Dùng dầu chống gầu tại các cửa hiệu thường cũng rất hữu hiệu để trị bệnh gầu.
Có phải đưa bé đến bác sĩ không ?

Bé phải được đưa đi bác sĩ nếu nổi mẩn lan rộng hoặc bị nhiễm trùng, Da đầu bị viêm, các triệu chứng khác nặng hơn hoặc bệnh không thuyên giảm trong vòng một vài tuần. Bác sĩ sẽ chỉ định kem chứa corticosteroid hoặc dầu gội đầu có chứa kháng sinh hoặc sát trùng. Nếu được cữa trị, chỗ nổi mẩn sẽ lan dần trong một vài tuần.

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

BIẾN CHỨNG THƯỜNG GẶP CỦA BỆNH VIÊM DA DẦU

Viêm da dầu: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gầu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. Vảy ở da đầu có thể được điều trị với các loại dầu gội ngứa pyrithion kẽm, selenium sulfid, salicylic acid, lưu huỳnh hoặc ketoconazol. Những trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu. Lưu ý khi dùng các loại kem chứa corticosteroid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason.

HẬU QUẢ CỦA BỆNH VIÊM DA DẦU



Viêm da chính là một phản ứng của da trước các yếu tố kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, các sang chấn cơ học và hóa học trên da hoặc các loại kháng nguyên gây dị ứng cho da.
Mặc dù các bệnh viêm da đều không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng và gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.

Da là một cơ quan đặc biệt, bao phủ hầu hết bề mặt của cơ thể và tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống nên rất dễ bị tổn thương bởi các tác nhân kích thích từ bên ngoài. Viêm da (còn được gọi là chàm hoặc eczema) là một trong những biểu hiện bệnh lý ở da thường gặp nhất. Đây là một nhóm gồm nhiều loại bệnh với các nguyên nhân khác nhau, đặc trưng bởi tình trạng viêm nông trên bề mặt của da, gây ra các biểu hiện ngứa, nề đỏ, nổi mụn nước, khi vỡ gây tiết dịch và đóng vảy, hay gặp nhất là viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da dầu, viêm da thần kinh, tổ đỉa và đỏ da toàn thân. Biến chứng thường gặp của tất cả các bệnh viêm da này là dày da do gãi nhiều và nhiễm trùng tại các vết trợt loét.
Một số dạng viêm da thường gặp nhất:


Viêm da tiếp xúc: Là dạng viêm da gây ra do sự tiếp xúc trực tiếp của da với một số kích thích từ môi trường như thuốc, hóa chất, sơn, cao su, các kim loại nặng hoặc ánh sáng. Hai cơ chế chủ yếu gây viêm da tiếp xúc là cơ chế dị ứng và cơ chế kích ứng. Trong cơ chế thứ nhất, phản ứng viêm da được khởi động do vai trò của phức hợp kháng nguyên – kháng thể, còn trong cơ chế thứ hai, phản ứng viêm da gây ra do độc tính trực tiếp trên da của một số hóa chất như kiềm, axit hoặc một số loại dung môi. Ban đỏ trong viêm da tiếp xúc thường xuất hiện sau khi tiếp xúc với nguyên nhân gây bệnh từ 4-24 giờ, rất ngứa, giới hạn ở vùng tiếp xúc và có ranh giới khá rõ. Vị trí tổn thương thường gợi ý rất nhiều cho việc xác định nguyên nhân gây viêm da tiếp xúc. Xác định và loại bỏ nguyên nhân gây bệnh là biện pháp quan trọng nhất trong điều trị và dự phòng viêm da tiếp xúc.



Viêm da cơ địa: Là một trong những bệnh lý ở da hay gặp nhất, thường xuất hiện ở những người có cơ địa mắc các bệnh dị ứng như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn... Hơn 90% các trường hợp bệnh khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi và kéo dài đến tuổi trưởng thành. Nguyên nhân gây bệnh chính xác không được biết nhưng một số yếu tố có thể làm cho bệnh nặng lên như sang chấn tâm lý, thay đổi nhiệt độ hoặc độ ẩm trong không khí, nhiễm trùng da hoặc mặc quần áo gây kích ứng da. Ở trẻ em, ban đỏ và mụn nước thường xuất hiện ở mặt, da đầu, vùng quấn tã, bàn tay, bàn chân, cẳng tay, cẳng chân. Ở người lớn, ban đỏ thường chỉ tái diễn ở một vài vị trí, chủ yếu là ở cánh tay, bàn tay, khuỷu tay và khoeo chân. Ban đỏ trong viêm da cơ địa rất ngứa. Viêm da cơ địa không thể điều trị khỏi, dùng các thuốc kháng histamin thế hệ 1 và mỡ corticosteroid bôi tại chỗ giúp giảm khá tốt biểu hiện ngứa. Corticosteroid đường toàn thân chỉ nên sử dụng trong những trường hợp bệnh dai dẳng. Lưu ý giữ ẩm da, tránh tiếp xúc với các chất gây kích ứng da và các tác nhân làm nặng bệnh.

Viêm da dầu: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gầu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. Vảy ở da đầu có thể được điều trị với các loại dầu gội ngứa pyrithion kẽm, selenium sulfid, salicylic acid, lưu huỳnh hoặc ketoconazol. Những trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu. Lưu ý khi dùng các loại kem chứa corticosteroid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason.

Đỏ da toàn thân: Là một phản ứng viêm nặng gây đỏ da, nứt kẽ và bong tróc da toàn bộ cơ thể. Thuốc là nguyên nhân chủ yếu gây đỏ da toàn thân, gặp nhiều nhất thường do các thuốc penicillin, sulfonamid, isoniazid và barbiturat. Đỏ da toàn thân cũng có thể là một biến chứng nặng của một số bệnh ngoài da như viêm da cơ địa, vảy nến, viêm da tiếp xúc, viêm da liên cầu hoặc là biểu hiện của một số bệnh ác tính về máu. Đỏ da toàn thân có thể khởi phát nhanh hoặc chậm, da lúc đầu thường đỏ và căng, sau đó trở nên dày và bong tróc, đôi khi có rụng tóc và móng. Bệnh nhân thường ngứa nhiều, có thể bị sốt hoặc hạ thân nhiệt, da có thể bị nứt kẽ và tiết dịch, dễ dẫn đến nhiễm trùng. Việc điều trị cần được tiến hành sớm trong bệnh viện, các biện pháp chủ yếu là dự phòng nhiễm trùng bằng kháng sinh, tăng cường bù dịch và bổ sung dinh dưỡng. Các loại corticosteroid đường toàn thân như prednison, prednisolon được dùng trong những trường hợp bệnh nặng hoặc không đáp ứng với các điều trị khác. Loại trừ nguyên nhân gây bệnh cũng là biện pháp hết sức quan trọng.

Viêm da thần kinh gây ra do tình trạng gãi hoặc chà xát kéo dài tại một vị trí.Bệnh thường xảy ra ở những người trong độ tuổi từ 20-50. Nguyên nhân đầu tiên gây ngứa thường do viêm da tiếp xúc, nhiễm nấm hoặc ký sinh trùng, nhưng sau khi nguyên nhân đã được giải quyết, người bệnh vẫn tiếp tục gãi ở vị trí cũ (có thể do yếu tố tâm lý). Bản thân động tác gãi có thể làm ngứa tăng lên và càng thúc đẩy người bệnh gãi, hậu quả là làm cho vùng da tại chỗ trở nên dày và nâu sạm (liken hóa). Những đám da này có ranh giới tương đối rõ, thường nằm ở da đầu, cổ, cổ tay, vai, cánh tay và cổ chân. Việc điều trị thường gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian. Cắt ngắn móng tay, mang găng cao su và hạn chế tối đa động tác gãi là điều hết sức quan trọng. Các loại kem hoặc mỡ cortisteroid bôi tại chỗ có tác dụng tốt giúp làm mềm da. Sử dụng các thuốc an thần hoặc gây ngủ có thể giúp giảm động tác gãi khi ngủ.

Tổ đỉa: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng nổi mụn nước, ngứa ở gan bàn tay và mặt bên của các ngón chân, đôi khi ở gan bàn chân. Bệnh thường gặp ở người trẻ tuổi, một số yếu tố có thể làm bệnh nặng lên như căng thẳng về tâm lý, tiếp xúc với các kim loại như niken, crôm, coban. Mụn nước của tổ đỉa thường có màu đỏ, rất ngứa, tiết nhiều dịch và có thể đóng vảy dày. Bệnh thường tiến triển từng đợt kéo dài 2-3 tuần. Điều trị bằng cách đắp gạc ướt tẩm kali permanganat hoặc nhôm acetat có thể giúp giảm triệu chứng. Các loại corticosteroid bôi tại chỗ tác dụng mạnh như fluocinolon, clobetason propionat có hiệu quả khá tốt trong đợt cấp của bệnh.


Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

CÁCH NHẬN BIẾT VIÊM DA VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ


Em bị viêm da, da nổi mẩn, đóng vảy, và ngứa . Ban đầu bác sĩ cho em bôi thuốc Funcidin H 15g cream, triệu chứng có giảm nhưng thuốc này chỉ được bôi trong 10 ngày . Khi không dùng nữa thì lại bị như lúc đầu . Sau đó em đi khám lại và bác sĩ cho bôi thuốc kẽm oxit 10%, Elomet cream 5g, kết hợp với thuốc uống Allertyn 10mg x 10 viên, dùng trong 10 ngày, sau 10 ngày em hết ngứa, da hết nổi mẩn và đi khám lại . Lần thứ 3, bác sĩ cho thuốc bôi Clean Ac lọ 40ml, Centaphil 118ml rửa mặt hàng ngày, thuốc uống Philco Q10 30 viên ngày uống 1 viên sau ăn sáng nhưng vẫn bị ngứa lại và nặng hơn lúc đầu . Cho em hỏi còn có cách nào khác không ? và bây giờ em phải làm gì ? Trước đây khoảng 4,5 tháng em có dùng kem trộn nhưng sau đó không dùng được 2 tháng thì bắt đầu bị như thế . Liệu kem trộn có ảnh hưởng gì đến bệnh này không ?

(Nguyễn Thị Hải Yến)

Trả lời: 
Viêm da chính là một phản ứng của da trước các yếu tố kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, các sang chấn cơ học và hóa học trên da hoặc các loại kháng nguyên gây dị ứng cho da. 
Mặc dù các bệnh viêm da đều không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng và gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.

Da là một cơ quan đặc biệt, bao phủ hầu hết bề mặt của cơ thể và tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống nên rất dễ bị tổn thương bởi các tác nhân kích thích từ bên ngoài. Viêm da (còn được gọi là chàm hoặc eczema) là một trong những biểu hiện bệnh lý ở da thường gặp nhất. Đây là một nhóm gồm nhiều loại bệnh với các nguyên nhân khác nhau, đặc trưng bởi tình trạng viêm nông trên bề mặt của da, gây ra các biểu hiện ngứa, nề đỏ, nổi mụn nước, khi vỡ gây tiết dịch và đóng vảy, hay gặp nhất là viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da dầu, viêm da thần kinh, tổ đỉa và đỏ da toàn thân. Biến chứng thường gặp của tất cả các bệnh viêm da này là dày da do gãi nhiều và nhiễm trùng tại các vết trợt loét. 
Một số dạng viêm da thường gặp nhất:

Viêm da tiếp xúc: Là dạng viêm da gây ra do sự tiếp xúc trực tiếp của da với một số kích thích từ môi trường như thuốc, hóa chất, sơn, cao su, các kim loại nặng hoặc ánh sáng. Hai cơ chế chủ yếu gây viêm da tiếp xúc là cơ chế dị ứng và cơ chế kích ứng. Trong cơ chế thứ nhất, phản ứng viêm da được khởi động do vai trò của phức hợp kháng nguyên – kháng thể, còn trong cơ chế thứ hai, phản ứng viêm da gây ra do độc tính trực tiếp trên da của một số hóa chất như kiềm, axit hoặc một số loại dung môi. Ban đỏ trong viêm da tiếp xúc thường xuất hiện sau khi tiếp xúc với nguyên nhân gây bệnh từ 4-24 giờ, rất ngứa, giới hạn ở vùng tiếp xúc và có ranh giới khá rõ. Vị trí tổn thương thường gợi ý rất nhiều cho việc xác định nguyên nhân gây viêm da tiếp xúc. Xác định và loại bỏ nguyên nhân gây bệnh là biện pháp quan trọng nhất trong điều trị và dự phòng viêm da tiếp xúc.

Viêm da cơ địa: Là một trong những bệnh lý ở da hay gặp nhất, thường xuất hiện ở những người có cơ địa mắc các bệnh dị ứng như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn... Hơn 90% các trường hợp bệnh khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi và kéo dài đến tuổi trưởng thành. Nguyên nhân gây bệnh chính xác không được biết nhưng một số yếu tố có thể làm cho bệnh nặng lên như sang chấn tâm lý, thay đổi nhiệt độ hoặc độ ẩm trong không khí, nhiễm trùng da hoặc mặc quần áo gây kích ứng da. Ở trẻ em, ban đỏ và mụn nước thường xuất hiện ở mặt, da đầu, vùng quấn tã, bàn tay, bàn chân, cẳng tay, cẳng chân. Ở người lớn, ban đỏ thường chỉ tái diễn ở một vài vị trí, chủ yếu là ở cánh tay, bàn tay, khuỷu tay và khoeo chân. Ban đỏ trong viêm da cơ địa rất ngứa. Viêm da cơ địa không thể điều trị khỏi, dùng các thuốc kháng histamin thế hệ 1 và mỡ corticosteroid bôi tại chỗ giúp giảm khá tốt biểu hiện ngứa. Corticosteroid đường toàn thân chỉ nên sử dụng trong những trường hợp bệnh dai dẳng. Lưu ý giữ ẩm da, tránh tiếp xúc với các chất gây kích ứng da và các tác nhân làm nặng bệnh.

Viêm da dầu: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gầu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. Vảy ở da đầu có thể được điều trị với các loại dầu gội ngứa pyrithion kẽm, selenium sulfid, salicylic acid, lưu huỳnh hoặc ketoconazol. Những trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu. Lưu ý khi dùng các loại kem chứa corticosteroid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason.

Đỏ da toàn thân: Là một phản ứng viêm nặng gây đỏ da, nứt kẽ và bong tróc da toàn bộ cơ thể. Thuốc là nguyên nhân chủ yếu gây đỏ da toàn thân, gặp nhiều nhất thường do các thuốc penicillin, sulfonamid, isoniazid và barbiturat. Đỏ da toàn thân cũng có thể là một biến chứng nặng của một số bệnh ngoài da như viêm da cơ địa, vảy nến, viêm da tiếp xúc, viêm da liên cầu hoặc là biểu hiện của một số bệnh ác tính về máu. Đỏ da toàn thân có thể khởi phát nhanh hoặc chậm, da lúc đầu thường đỏ và căng, sau đó trở nên dày và bong tróc, đôi khi có rụng tóc và móng. Bệnh nhân thường ngứa nhiều, có thể bị sốt hoặc hạ thân nhiệt, da có thể bị nứt kẽ và tiết dịch, dễ dẫn đến nhiễm trùng. Việc điều trị cần được tiến hành sớm trong bệnh viện, các biện pháp chủ yếu là dự phòng nhiễm trùng bằng kháng sinh, tăng cường bù dịch và bổ sung dinh dưỡng. Các loại corticosteroid đường toàn thân như prednison, prednisolon được dùng trong những trường hợp bệnh nặng hoặc không đáp ứng với các điều trị khác. Loại trừ nguyên nhân gây bệnh cũng là biện pháp hết sức quan trọng.

Viêm da thần kinh gây ra do tình trạng gãi hoặc chà xát kéo dài tại một vị trí. Bệnh thường xảy ra ở những người trong độ tuổi từ 20-50. Nguyên nhân đầu tiên gây ngứa thường do viêm da tiếp xúc, nhiễm nấm hoặc ký sinh trùng, nhưng sau khi nguyên nhân đã được giải quyết, người bệnh vẫn tiếp tục gãi ở vị trí cũ (có thể do yếu tố tâm lý). Bản thân động tác gãi có thể làm ngứa tăng lên và càng thúc đẩy người bệnh gãi, hậu quả là làm cho vùng da tại chỗ trở nên dày và nâu sạm (liken hóa). Những đám da này có ranh giới tương đối rõ, thường nằm ở da đầu, cổ, cổ tay, vai, cánh tay và cổ chân. Việc điều trị thường gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian. Cắt ngắn móng tay, mang găng cao su và hạn chế tối đa động tác gãi là điều hết sức quan trọng. Các loại kem hoặc mỡ cortisteroid bôi tại chỗ có tác dụng tốt giúp làm mềm da. Sử dụng các thuốc an thần hoặc gây ngủ có thể giúp giảm động tác gãi khi ngủ.

Tổ đỉa: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng nổi mụn nước, ngứa ở gan bàn tay và mặt bên của các ngón chân, đôi khi ở gan bàn chân. Bệnh thường gặp ở người trẻ tuổi, một số yếu tố có thể làm bệnh nặng lên như căng thẳng về tâm lý, tiếp xúc với các kim loại như niken, crôm, coban. Mụn nước của tổ đỉa thường có màu đỏ, rất ngứa, tiết nhiều dịch và có thể đóng vảy dày. Bệnh thường tiến triển từng đợt kéo dài 2-3 tuần. Điều trị bằng cách đắp gạc ướt tẩm kali permanganat hoặc nhôm acetat có thể giúp giảm triệu chứng. Các loại corticosteroid bôi tại chỗ tác dụng mạnh như fluocinolon, clobetason propionat có hiệu quả khá tốt trong đợt cấp của bệnh.

Trường hợp của bạn, theo chúng tôi bạn cần đi khám tại Bệnh viện Da liễu trung ương để xác định rõ nguyên nhân gây bệnh, chẩn đoán bạn thuộc nhóm bệnh lý nào… để có cách điều trị thích hợp và hiệu quả. Bạn chỉ được sử dụng thuốc theo chỉ định của Bác sĩ, tuyệt đối không được sử dụng các loại thuốc trộn và thuốc không rõ nguồn gốc, sẽ khiến cho bệnh của bạn trầm trọng hơn. Lưu ý tái khám sau mỗi đợt điều trị.

Chúc bạn thành công!

VIÊM DA DẦU Ở MẶT VÀ PHƯƠNG PHÁP CHỮA TRỊ


1. GIỚI THIỆU:

Viêm da dầu là một bệnh da sẩn vảy rất thường gặp, chiếm khoảng hơn 5% dân số, bệnh thường xảy ra ở nam giới. Bệnh có đặc điểm là đỏ da từ nhẹ đến nặng, thường kèm theo vảy mỡ dày và viêm nhẹ. Vị trí điển hình thường gặp là vùng da có nhiều tuyến bã, đặc biệt là ở mặt, tai, da đầu và vùng trên của thân.

Viêm da dầu thường diễn biến mạn tính và tái phát, thời gian khỏi bệnh ngắn nên đã có nhiều phương pháp điều trị được áp dụng. Điều trị viêm da dầu ở mặt chủ yếu là corticosteroid tại chỗ, thuốc kháng nấm hoặc kết hợp cả hai loại. Mặc dù steroid tại chỗ làm giảm nhanh các triệu chứng của viêm da dầu nhờ hoạt tính kháng viêm nhưng thường liên quan đến tác dụng phụ khi sử dụng kéo dài và sớm tái phát sau khi ngừng điều trị do vậy việc sử dụng thuốc bị hạn chế. Các thuốc kháng nấm tại chỗ cũng thường được sử dụng để làm giảm sự xâm nhập của các nấm men ưa mỡ, Malassezia(Pityrosporum ovale), nhưng hiệu quả kháng viêm của các thuốc này xuất hiện chậm hơn so với Steroid tại chỗ.

Pimecrolimus kem 1% là một dạng thuốc bôi mới (macrolactam) có tác dụng điều hoà miễn dịch tại chỗ được sử dụng rộng rãi trong điều trị viêm da cơ địa nhờ tác dụng ức chế hoạt hoá của tế bào T và sản sinh Cytokine tiền viêm. Thuốc này cũng cho thấy có hiệu quả trong điều trị các bệnh da có viêm khác. Crurchfield đã đề nghị Pimecrolimus kem 1% có thể được sử dụng như là một trị liệu hiệu quả viêm da dầu ở mặt. Rigopoulos và cộng sự đã thực hiện một thử nghiệm lâm sàng mở ngẫu nhiên với Pimecrolimus kem 1% và Betamethasone 17-valerate kem 0,1 kết quả cho thấy Pimecrolimus có thể là thuốc thay thế tuyệt vời trong điều trị viêm da dầu. Ơ đây chúng tôi giới thiệu sự đáp ứng nhanh và chắc chắn với Pimecrolimus trong điều trị viêm da dầu.

2. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP:

Nghiên cứu này được thực hiện trong 4 tuần, một thử nghiệm lâm sàng mở để đánh giá hiệu quả của Pimecrolimus kem 1% trong điều trị viêm da dầu ở mặt.

Tổng cộng 20 bệnh nhân với chẩn đoán lâm sàng là viêm da dầu ở mặt được đưa vào nghiên cứu trong đó có 16 nam và 4 nữ với tuổi trung bình là 47,9 và thời gian mắc bệnh trung bình là 3,8 năm. Những bệnh nhân đã được dùng Corticosteroid toàn thân hoặc tại chỗ, Retinoid hoặc các thuốc điều hoà miễn dịch trong vòng 28 ngày trước đó không đưa vào nghiên cứu. Những bệnh nhân bị bất cứ bệnh nào có ảnh hưởng đến miễn dịch (U lympho, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, các bệnh suy giảm miễn dịch khác, hoặc có tiền sử bệnh ác tính) bị loại trừ. Tiêu chuẩn loại trừ khác: Phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú và những bệnh nhân bị những bệnh da khác ở mặt.

Bệnh nhân đưa vào nghiên cứu được hướng dẫn ngừng các thuốc kháng nấm, kháng sinh tại chỗ và toàn thân như: Hắc ín, Zinc pyrithione hoặc selerium sulfate trong vòng 14 ngày trước khi bắt đầu điều trị, các chế phẩm làm sạch da mặt và dầu gội không có thuốc được phép sử dụng trong nghiên cứu.

Mặt khác, bệnh nhân còn được hướng dẫn hạn chế đến mức tối thiểu hoặc tránh ánh sáng tự nhiên hoặc nhân tạo. Bệnh nhân được hướng dẫn bôi Pimecrolimus kem 1% (Norvatis, Basel, Switzerland) các vùng thương tổn ở mặt với 1 lớp mỏng và bôi 2 lần mỗi ngày trong 4 tuần liên tục. Nếu các triệu chứng của viêm da dầu được giải quyết sớm thì bệnh nhân được hướng dẫn sử dụng Pimecrolimus kem 1% thêm 1 tuần.

Đánh giá triệu chứng của viêm da dầu được thực hiện tại thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu và tại tuần thứ nhất, thứ hai và tuần thứ tư. Bốn vùng được đánh giá (trán/vùng lông mày, kẽ mũi má, vùng quanh miệng/cằm, và vùng sau tai ), đánh giá lâm sàng bằng các triệu chứng: đỏ da, bong vảy, và ngứa ở 4 mức độ cho điểm từ 0-3 : không có: 0; nhẹ: 1; trung bình: 2; nặng: 3. Điểm số của các triệu chứng lâm sàng và các dấu hiệu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu được so sánh với những lần tái khám sau đó để đánh giá hiệu quả của Pimecrolimus kem. Thầy thuốc và bệnh nhân đánh giá tổng thể các triệu chứng của viêm da dầu tại mỗi lần tái khám: sạch tổn thương hoàn toàn (không có bất kỳ dấu hiệu nào của viêm da dầu); sạch hầu hết (>90% sạch tổn thương); cải thiện rõ (75-90% sạch tổn thương); cải thiện trung bình (50-75% sạch tổn thương); cải thiện không đáng kể (25-50% sạch tổn thương); không thay đổi so với thời điểm bắt đầu nghiên cứu; hoặc bệnh xấu đi so với thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Phản ứng phụ tại chỗ như là cảm giác rát bỏng, nhức, đau, đau nhức, hoặc dấu hiệu nhiễm virus, nhiễm khuẩn được ghi nhận: không, nhẹ, trung bình, hoặc nặng. Theo dõi sự tái phát của các triệu chứng: đỏ da, bong vảy, hoặc ngứa sau khi dừng Pimecrolimus được thực hiện qua điện thoại. Đánh giá hiệu quả của Pimecrolimus bằng phân tích số liệu qua các triệu chứng đỏ da, vảy, và ngứa với test ANOVA.

3. KẾT QUẢ:

Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu đã được thường xuyên sử dụng corticosteroid, trong khi đó chỉ có một bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc chống nấm tại chỗ. Pimecrolimus là thuốc được sử dụng đầu tiên ở năm bệnh nhân.

Có 16 bệnh nhân hoàn thành nghiên cứu với thời gian 4 tuần điều trị bằng pimecrolimus kem 1%, có 4 bệnh nhân không hoàn thành nghiên cứu với lý do là bệnh khỏi sớm.

Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu tất cả bệnh nhân đều có đỏ da với điểm trung bình là 15,5. Có 19 (95%) bệnh nhân có vảy với điểm trung bình là 3,7 và 17 (<85%) có ngứa với điểm trung bình là 4,12. Sự giảm có ý nghĩa các triệu chứng lâm sàng trong 4 tuần sử dụng pimecrolimus kem 1% và bệnh giảm nhiều nhất tại thời điểm cuối tuần thứ nhất. Tại thời điểm một tuần, điểm trung bình của giảm vảy nhanh nhất là 73,0 % so với điểm trung bình tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu, dấu hiệu này tiếp tục giảm sau một tuần là 85,1% và điểm số giảm trung bình tại thời điểm 4 tuần là 91,9% (P < 0,001). Tương tự như vậy, điểm số trung bình của dấu hiệu đỏ da (P < 0,001) và ngứa (P< 0,001) giảm là 53,4% và 68,7% tại thời điểm một tuần; 69,9% và 88,6% tại thời điểm 2 tuần; 87,4% và 91,5% tại thời điểm 4 tuần so với điểm trung bình tại thời điểm bắt đầu vào nghiên cứu. Sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê (P < 0,00 ) và tương quan với hình ảnh trên lâm sàng.

VIÊM DA DẦU NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH TRỊ



1. Đại cương:

Là bệnh da thông thường, biểu hiện tình trạng viêm da mạn tính với vảy da bóng mỡ trên nền da đỏ xuất hiện ở vùng da có nhiều tuyến bã hoạt động như da đầu, mặt, vùng trước xương ức, vùng liên bả vai…Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

Bệnh diễn biến dai dẳng với các đợt bùng phát. Tuy không ảnh hưởng tới sức khoẻ nhưng bệnh có thể gây ảnh hưởng tới thẩm mỹ và tâm lý của người bệnh.

Viêm da dầu được biết đến từ rất lâu với nhiều tên gọi khác nhau. Ở ViệtNam, trước đây viêm da dầu thường được gọi là chàm da dầu, chàm da mỡ…

Người nhiễm HIV/ AIDS tỷ lệ mắc bệnh viêm da dầu rất cao

2. Căn nguyên và cơ chế bệnh sinh

- Căn nguyên:

Căn nguyên của bệnh viêm da dầu chưa rõ ràng. Các yếu tố nội sinh và gen được coi là nguyên nhân của bệnh. Ngoài ra còn có vai trò của nấm.

- Cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm da dầu có thể theo một số giả thuyết sau:

+ Sự bất thường về vòng đời của các tế bào thượng bì: Sự di chuyển nhanh của tế bào thượng bì ra các lớp ngoài làm cho quá trình sừng hoá chưa kịp hoàn thiện.

+ Do nấm Malassezia: Gồm 7 loài M.furfur, M.sympodialis, M.obtusa, M.globosa, M.restricta, M.slooffiae và M.pachydermatis

- Một số yếu tố liên quan:

+ Viêm da dầu từng được coi là kết quả của sản xuất quá nhiều chất bã.

+ Thói quen gội đầu không thường xuyên.

+ Thói quen sử dụng thuốc và mỹ phẩm có chứa cồn gây khô da.

+ Thời tiết nóng ẩm hoặc lạnh khô.

+ Người béo bệu, có chế độ ăn nhiều chất béo.

+ Rối loạn thần kinh trung ương như Parkinson, liệt dây thần kinh sọ não, mất cảm giác rộng ở thân mình.

+ Stress, cơ thể suy nhược.

Một số bệnh da khác cũng thường hay phối hợp với bệnh viêm da dầu như trứng cá, trứng cá đỏ, vảy nến.

3. Biểu hiện của viêm da dầu

- Dát đỏ ranh giới không rõ trên có vảy da bóng mỡ màu vàng.

- Vị trí chủ yếu: Da đầu, sau tai, ống tai ngoài, rãnh mũi má, lông mày, bờ mi, vùng trước xương ức và vùng liên bả.

Một số vị trí ít gặp hơn như nách, kẽ dưới vú, rốn, bẹn, kẽ mông.

- Ngứa.

4. Các hình thái của viêm da dầu

4.1. Ở trẻ sơ sinh:

- Viêm da dầu có thể xuất hiện ở các vị trí

+ Ở đầu: Đỉnh đầu đóng vảy nhờn như mỡ, có màu trắng, trắng xám hay vàng, không ngứa, giống như “mũ úp”.

+ Ở thân mình (bao gồm cả tổn thương nếp gấp và vùng quấn tã) vảy nhờn, bóng mầu vàng sẫm. Khi những vẩy này bong ra, phần da ở chỗ đó đỏ ửng.

4.2. Ở người lớn:

- Ở đầu: Gầu ở da đầu là biểu hiện sớm nhất của viêm da dầu.

Cuối giai đoạn này xung quanh các nang lông thường đỏ lên, bong vảy, lan thành từng mảng có ranh giới rõ. Mảng tổn thương có thể lan rộng và tiến ra rìa chân tóc. Trường hợp mạn tính có thể thấy rụng tóc.

- Ở mặt:

+ Viêm da dầu thường đặc trưng bằng thương tổn vùng lông mày, điểm giữa trên gốc mũi và rãnh mũi má. Thương tổn là các dát đỏ bong vảy da, ranh giới rõ và thường liên quan đến thương tổn trên đầu.

+ Viêm bờ mi cũng thường thấy, bờ mi đỏ lên và có những vảy da trắng nhỏ.

+ Viêm da dầu nông ở cằm thường gặp ở nam giới ở giai đoạn đầu khi mọc râu.

- Ở thân mình:

+ Hình thái cánh hoa (Petaloide form): Thường gặp nhất, thường xuất hiện ở vùng trước xương ức và vùng liên bả vai ở nam giới. Thương tổn bắt đầu bằng những sẩn nhỏ nang lông, màu đỏ nâu, phía trên có vảy tiết bã. Thương tổn lan rộng ra và liên kết với nhau tạo thành đám thương tổn có hình vòng cung với vảy da trắng ở vùng trung tâm, các sẩn đỏ thẫm với vảy tiết bã ở vùng ngoại vi.

+ Hình thái bong vảy phấn: Là các dát đỏ bong vảy.

+ Ở các nếp gấp như nách, bẹn, sinh dục, kẽ dưới vú: Biểu hiện như viêm kẽ, các dát đỏ ranh giới rõ và có vảy da tiết bã.

5. Điều trị

Bong vảy, tiêu sừng.

Thuốc kháng viêm.

Thuốc chống nấm.

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

TRẺ EM VÀ NGƯỜI LỚN ĐỀU BỊ VIÊM DA DẦU


Ở trẻ em
Viêm da dầu có thể xuất hiện ở các vị trí
+ Ở đầu: Đỉnh đầu đóng vảy nhờn như mỡ, có màu trắng, trắng xám hay vàng, không ngứa, giống như “mũ úp”.
+ Ở thân mình (bao gồm cả tổn thương nếp gấp và vùng quấn tã) vảy nhờn, bóng mầu vàng sẫm. Khi những vẩy này bong ra, phần da ở chỗ đó đỏ ửng.
 Ở người lớn:
- Ở đầu: Gầu ở da đầu là biểu hiện sớm nhất của viêm da dầu.
Cuối giai đoạn này xung quanh các nang lông thường đỏ lên, bong vảy, lan thành từng mảng có ranh giới rõ. Mảng tổn thương có thể lan rộng và tiến ra rìa chân tóc. Trường hợp mạn tính có thể thấy rụng tóc.
- Ở mặt:
+ Viêm da dầu thường đặc trưng bằng thương tổn vùng lông mày, điểm giữa trên gốc mũi và rãnh mũi má. Thương tổn là các dát đỏ bong vảy da, ranh giới rõ và thường liên quan đến thương tổn trên đầu.
+ Viêm bờ mi cũng thường thấy, bờ mi đỏ lên và có những vảy da trắng nhỏ.
+ Viêm da dầu nông ở cằm thường gặp ở nam giới ở giai đoạn đầu khi mọc râu.
- Ở thân mình:
+ Hình thái cánh hoa (Petaloide form): Thường gặp nhất, thường xuất hiện ở vùng trước xương ức và vùng liên bả vai ở nam giới. Thương tổn bắt đầu bằng những sẩn nhỏ nang lông, màu đỏ nâu, phía trên có vảy tiết bã. Thương tổn lan rộng ra và liên kết với nhau tạo thành đám thương tổn có hình vòng cung với vảy da trắng ở vùng trung tâm, các sẩn đỏ thẫm với vảy tiết bã ở vùng ngoại vi.
+ Hình thái bong vảy phấn: Là các dát đỏ bong vảy.
+ Ở các nếp gấp như nách, bẹn, sinh dục, kẽ dưới vú: Biểu hiện như viêm kẽ, các dát đỏ ranh giới rõ và có vảy da tiết bã.